Tin tức & Review

Những Địa Điểm Hành Hương Công Giáo Miền Trung

HÀNH HƯƠNG VỀ MIỀN DI SẢN  miền Trung nơi nó nhiều những di sản Thiên nhiên, Văn hoá được du khách trong cũng như ngoài nước biết đến: Cung đình Huế với nét đẹp cổ kính niên đại hàng trăm năm, Phố cổ Hội An một di sản văn hoá thế giới, di sản thiên nhiên thế giới hang Sơn Đoòng,… Ngoài ra miền Trung cũng là nơi có nhiều địa điểm hành hương công giáo, không chỉ thu hút những du khách theo đạo công giáo, mà còn thu hút những du khách không theo đạo công giáo trên khắp cả nước và toàn thế giới. Các địa điểm có thể kể đến: Linh Địa Đức Mẹ La Vang, Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Trà Kiệu, Đức Mẹ Sao Biển, Đền Thánh Antôn Trại Gáo,…

Thánh địa La Vang – trung tâm hành hương lớn nhất của người Công giáo

 14-03-2024

Thánh địa La Vang đang trở thành một địa điểm du lịch Quảng Trị nổi tiếng. La Vang là một trung tâm hành hương tôn giáo quan trọng và lớn nhất của người Công Giáo. Đây không chỉ là nơi để cầu nguyện những điều suôn sẻ trong năm mới mà còn là nơi chứa nhiều điều lý thú mà bạn có thể tìm hiểu, khám phá.

1. Thánh địa La Vang 

Trung tâm Hành hương Đức Mẹ La Vang, còn được gọi là “Vương cung thánh đường Đức Mẹ La Vang” nằm trong khu vực xưa gọi là Dinh Cát. Sở dĩ gọi là Dinh Cát bởi vào đời chúa Nguyễn Hoàng vào Nam thế kỷ XVI vùng này gọi là Dinh Cát tức Dinh xây trên một vùng đất cát có khi gọi là Cát Dinh. Ngày nay, thánh địa La Vang tọa lạc tại  xã Hải Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, cách thành cổ Quảng Trị chừng 6 km về phía nam, đồng thời cách Thừa Thiên Huế tầm 60km.

Đường đi đến Thánh địa La Vang cũng khá dễ, thông thường du khách chọn các loại phương tiện sau:

  • Xe khách

Nếu quý khách đi xe Bắc – Nam (QL 1A) thì đến Thị Xã Quảng Trị – Tỉnh Quảng Trị. Bạn dừng chân ở Cầu Trắng. Sau đó đi xe ôm hoặc Taxi vào Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang (cách tầm 4km).

  • Tàu hỏa

Nếu đi tàu hỏa, quý khách có thể xuống ở Ga Đông Hà sau đó đi xe ôm hoặc taxi đến Thánh địa La Vang (cách tầm 16km) hoặc ở ga Huế cách La Vang 57km. Dừng ở ga Huế, có thể thuê xe du lịch để đi tham quan Cố Đô Huế, sau đó hành hương về bên Mẹ La Vang.

  • Máy bay

Book chuyến bay đến sân bay Phú Bài – Thừa Thiên Huế. Sau đó di chuyển bằng xe bus để vào thành phố. Tiếp tục đi xe khách để về Quảng Trị, sau đó đón xe ôm hoặc taxi để đến La Vang.

Về tên gọi La Vang có 2 cách giải thích như sau:

  • Ngày xưa, dưới thời vua Tây Sơn Quang Toản có chính sách chống đạo Kitô giáo, vì ông cho rằng những người theo công giáo giúp Gia Long, cho nên nhiều người theo Công giáo ở vùng Quảng Trị để tránh sự trừng phạt của nhà Tây Sơn đã chạy lên vùng đất này. Vì là vùng núi hẻo lánh, nên muốn liên lạc với nhau họ phải “la” lớn, mà khi “la” lớn sẽ “vang” to. Từ đó, cái tên La Vang ra đời. Hơn nữa La Vang cũng là tiếng kêu cứu của người dân khi thấy thú dữ đến.
  • Một cách thích thứ 2 đó là khi giáo dân chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh. Một hôm khi mọi người đang cùng nhau lần hạt kính Đức Mẹ, bỗng nhiên Đức Mẹ đã hiện ra . Đức Mẹ đã tỏ lòng nhân từ, âu yếm, và an ủi giáo dân để họ có thể vui lòng chịu khó. Mẹ dạy họ hái một loại lá cây có sẵn chung quanh đó, đem nấu nước uống sẽ lành các chứng bệnh tên là lá vằng. Về sau người ta đọc  “lá vằng” không dấu thành La Vang.

Thánh địa La Vang có phong cách kiến trúc Việt mang hình dáng ngôi đình Việt. Nhiều công trình khác cũng đã được xây dựng cùng với khu nhà chính tạo nên một quần thể kiến trúc hài hòa.

Màu rêu phong của nhà thời thánh đã chấm phá nên nét cá biệt, khiến ai nhìn cảm thấy lần thứ nhất cũng đơn giản và dễ dàng liên tưởng ngay đến các chặng đường lịch sử, không riêng gì riêng mỗi nhà thời thánh mà còn cả một thời gian đầy sự kiện, nay đã trôi vào quá khứ.

Vẻ đẹp màu rêu phong của Thánh địa La Vang

Ở trung tâm của khu Thánh địa, ngày nay còn lại di tích tháp chuông của Vương cung thánh đường Đức Mẹ La Vang. Công trình này được xây dựng từ năm 1924 – 1929, đại trùng tu năm 1959. Vào mùa hè năm 1972, Vương Cung Thánh Đường đã bị hủy hoại do chiến tranh, chỉ còn lại di tích tháp chuông.

Tại điểm đặt được cho là địa điểm Đức Mẹ hiện ra ở gốc cây đa cổ thụ, một tượng đài sang trọng đã được thành lập với biểu tượng ba cây đa và Đức Mẹ La Vang ở tại chính giữa. Và Tượng Đức Mẹ La Vang cũng được đặt ở nhiều địa điểm trong Thánh địa. Đức Mẹ thường được thể hiện bằng tấm hình một người phụ nữ mặc áo dài Việt Nam bế đứa bé cũng mặc trang phục truyền thống cổ truyền Việt Nam.

Phía trước di tích tháp chuông Trung tâm hành hương Đức mẹ La Vang là một quảng trường rộng. Hai bên quảng trường là Đàng Thánh Giá – một loạt gồm 14 tác phẩm điêu khắc, mô tả diễn tiến cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, từ khi ông bị kết án đến khi bị đóng đinh trên thập giá và cuối cùng là an táng trong hầm mộ.

Ngoài ra,trong khuôn viên Thánh địa còn có giếng nước Đức Mẹ La Vang, nơi mỗi tín đồ khi tới đây đều uống một ngụm nước để tỏ lòng thành kính với Đức Mẹ. Nhiều tín đồ tin rằng nước giếng có khả năng chữa được bệnh tật trong cơ thể

Hàng năm, lễ hội La Vang sẽ  được tổ chức vào ngày 14, 15 tháng 8 tại La Vang, 3 năm sẽ tổ chức một lễ lớn gọi là Đại hội hành hương La Vang.

Người hành hương về đây sử dụng nguồn nước gần bên Linh đài cùng lời cầu nguyện sẽ chữa lành phần hồn và phần xác cho các giáo dân. Cùng với đó, loại cây lá vằng sẽ được mua về làm thuốc hay quà biếu để phục hồi sức khỏe, trị một số bệnh liên quan.

Tiếp tới, sẽ có 1 đêm diễn nguyện được góp vốn đầu tư hết sức hoành tráng và đêm chầu Thánh Thể bên Mẹ. Thánh Lễ trang trọng nhất trong 3 ngày Đại Hội là thánh lễ mừng kính trọng thể Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vào sáng 15 tháng tám. Đây cũng chính là Thánh Lễ bế mạc Đại Hội.

Trong hành trình tìm về vùng đất lửa Quảng Trị, đến với Thánh địa La Vang giúp du khách như được an ủi chở an và bình yên phần nào. Những chia sẻ trên đây của Du Lịch Đại Bàng, hy vọng sẽ giúp quý khách có cho mình một kiến thức bổ ích cho chuyến đi tham quan Thánh địa La Vang sắp tới của mình.

2. ĐỨC MẸ TRÀ KIỆU

Đức Mẹ Trà Kiệu là mảnh đất thứ hai ở miền Trung Việt Nam được Đức Mẹ hiện ra sau La Vang. Những lúc giáo dân bị bách hại thì Mẹ lại hiện ra che chở cho con cái Mẹ. Vào tháng 8 năm 1885, Mẹ đã hiện ra ở Trà Kiệu để che chắn những làn đạn của quân Văn Thân bắn vào nhà thờ. Cha xứ lúc đó và giáo dân đều biết chuyện này nên đã hết lòng cảm tạ Thiên Chúa và Đức Mẹ. Chuyện này về sau được loan truyền rộng rãi cho nhiều giáo dân trong cả giáo phận Đà Nẵng.

Đức Mẹ Trà Kiệu ở đâu ?
Địa chỉ Đức Mẹ Trà Kiệu ở  Xã Duy Sơn, Huyện Duy Xuyên, Tỉnh Quảng Nam, thuộc giáo phận Đà Nẵng. Cách thành phố Đà Nẵng 44 km về phía nam, nếu thuê xe Đà Nẵng đi Trà Kiệu thì mất khoảng 1h 15p, đi qua QL1A.

Lịch sử Đức Mẹ Trà Kiệu
Từ thế kỷ IV-VIII, Trà Kiệu xưa là kinh đô đầu tiên của nước Chiêm Thành. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, Trà Kiệu trở thành một làng Công Giáo của nhóm người từ miền Bắc miền Trung theo đà Nam tiến vào lập nghiệp.
Từ năm 1596-1602, Trà Kiệu được cha Raphael (dòng Augustinô – Bồ Ðào Nha) đến rao giảng Tin Mừng. Năm 1628, một nhóm người di dân Công Giáo đã xây dựng ở đây ngôi nhà thờ đầu tiên. Năm 1722, giáo xứ Trà Kiệu có tới 300 giáo dân. Năm 1872, cha Louis Marie Garibert Lợi xây một nhà thờ lớn hơn.
Năm 1885, sau khi vua Hàm Nghi bỏ kinh thành, phong trào Cần Vương nổi dậy tại nhiều tỉnh miền Trung với khẩu hiệu “Bình Tây, Sát Tả”.

Giáo xứ Trà Kiệu bị bao vây vào ngày 01 tháng 9 năm 1885, sau ngày Văn Thân chiếm giữ thủ phủ Quảng Nam. Trà Kiệu lúc bấy giờ chưa có chuẩn bị tự vệ, vì Cố Nhơn (Bruyère) nghĩ rằng : Trận chiến sẽ không khủng khiếp hơn trận chiến ở Trung Sơn, Tư Ngãi. Cố Nhơn một phần hi vọng vào sự cứu viện của Pháp, nhưng phần lớn là Cha hoàn toàn tin cậy vào sự che chở của Đức Trinh Nữ Maria. Ngày hôm đó, quân Văn Thân khoảng hơn 8,000 người bao vây giáo xứ Trà Kiệu với vũ khí đầy đủ, có cả đại bác thần công và voi chiến. Về phía giáo dân, chỉ có hơn 300 nam, tuổi từ 16 tới 60; và khoảng mấy trăm phụ nữ với vũ khí thô sơ. Giáo dân khiếp sợ chạy đến nhà thờ cầu xin Ðức Mẹ và đã chống trả quyết liệt trong suốt hơn 10 ngày. Trong lúc chiến đấu, giáo dân cùng hô khẩu hiệu Giê-su – Ma-ri-a – Giu-se.

Sang ngày 10/9, quân Văn Thân bắt đầu nã thần công thật khủng khiếp, vang dội cả tỉnh. Tuy nhiên, nhờ ơn Chúa, nhà thờ Trà Kiệu không hề hấn gì, vẫn đứng vững và giáo dân Trà Kiệu vẫn anh dũng kháng cự lại sự điên cuồng của quân Văn Thân. Sau đó, quân Văn Thân tập trung quan sát thành quả những trận đại pháo vừa qua, nhưng họ sững sờ khi trông thấy mọi nơi đều y nguyên, mặc dù họ đã dốc hết sức, nhưng tất cả vẫn còn đứng vững. Một xạ thủ là một quan chức rất quen sử dụng đại bác đã thú nhận sau đó rằng: “muốn nhắm một Bà đẹp mặc đồ trắng đứng trên nóc nhà thờ, mà tất cả đều đi quá cao, trừ có một quả”.
Suốt ngày hôm đó và cả ngày hôm sau, quân Văn Thân trên đồi Kim Sơn không ngừng kêu lên : “Thật lạ lùng, có một người Đàn Bà luôn đứng trên nóc nhà thờ, bà rất đẹp mà ta không sao bắn trúng”.

Phải chăng đó là một phép lạ tỏ tường của Đức Mẹ, phải chăng Đức Mẹ đã che chở cho mọi người đang ẩn náu trong thánh đường được dâng hiến cho Trái Tim Vẹn Sạch của Mẹ. Cuộc chiến kéo dài đến 21-9-1885 thì quân Cần Vương bỏ chạy, giáo dân được giải thoát.

Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu

Sau khi giáo phận Đà Nẵng được thành lập (18/01/1963), trong Thánh lễ bế mạc Đại Hội Thánh Mẫu tại Trà Kiệu ngày 31/05/1971, Đức cố Giám Mục P.M Phạm Ngọc Chi long trọng tuyên bố: Trà Kiệu là Trung Tâm Thánh Mẫu của giáo phận Đà Nẵng. Kể từ đó, hằng năm cứ đến Đại Hội Thánh Mẫu Trà Kiệu 31/5, con cái của Mẹ không chỉ trong Giáo Phận Đà Nẵng mà trên toàn quốc lại tụ họp quây quần bên Mẹ để cung nghinh, cảm tạ và khấn xin Mẹ. Kể từ biến cố Ất Dậu (1885) đến nay, ơn Mẹ không ngừng tuân đổ trên con cái Mẹ. Vì Mẹ là Đấng “Phù Hộ Các Giáo Hữu”.

Nhà thờ Đức Mẹ Trà Kiệu
Nhà thờ Trà Kiệu đựơc xây dựng vào năm 1772 ở một vị trí khác và sau đó chuyển đến vị trí như ngày nay vào năm 1865.  Năm 1970, Linh mục Phêrô Lê Như Hảo (quản xứ từ năm 1963 – 1974) đã bắt tay xây dựng lại ngôi nhà thờ chính, theo lối kiến trúc Châu Âu thế kỷ 17, nhà thờ có hai tầng, tầng trên là Thánh đường, tầng dưới là nơi hội họp. Nhà thờ được lấy tước hiệu là “Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu”. Nhà thờ này vẫn còn cho đến ngày nay. Ngoài ra cha đã lo công tác trùng tu kiến thiết Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu. Ngài xây dựng ngôi đền Mẹ trên đồi Bữu Châu, xây dựng khán đài, ao sen, nhà thủy tạ và con đường núi sọ quanh nhà thờ núi. Ngài còn đứng ra tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu Trà Kiệu làn thứ hai.

Từ khi Mẹ hiện ra (1885) đến nay, Đức Mẹ Trà Kiệu nổi tiếng là linh thiêng, kẻ lương người giáo đều đến cầu khẩn và nhiều người đã được ý nguyện như ý. Cỏ cây quanh đền thờ nhờ ơn Đức Mẹ thông ban, đã trở nên công hiệu chữa nhiều bệnh tật.

Hằng năm, vào ngày 31/5 dương lịch, giáo phận Đà Nẵng tổ chức ngày Đại Hội Hành Hương tại Đức Mẹ Trà Kiệu vào ngày Lễ Đức Mẹ Đi Viếng. Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu ngày càng thu hút các đoàn hành hương đến đây, cùng với việc kính viếng Đức Mẹ Trà Kiệu, họ còn có thể tham quan hai Di Sản Văn Hóa Thế Giới là Mỹ Sơn và Hội An tọa lạc khá đều hai bên Đông-Tây của Trà Kiệu, cũng như viếng Đền Thánh kính Chân Phước Anrê Phú Yên gần đó tại Phước Kiều, nơi Ngài đã đổ máu như người chứng thứ nhất của Giáo Hội Việt Nam vào năm 1644. Ngoài ra, mộ phần của Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi tại Vườn Nghĩa cạnh Nhà thờ Giáo xứ Trà Kiệu, cũng là nơi được nhiều khách hành hương tìm đến kính viếng.

3. Đức Mẹ Sao Biển

Đức Mẹ Sao Biển tọa lạc ngay bên bờ biển Mỹ Khê, trên con đường võ Nguyên Giáp thuộc thành phố Đà Nẵng. Nơi đây được xem như một trong những địa điểm lý tưởng để khách du lịch, đặc biệt là những người có niềm tin vào Công giáo, những giáo dân ghé thăm để hành hương và cầu nguyện. Bên cạnh đó, khu vực này còn được thừa hưởng bầu khí hậu trong lành, mát mẻ đến từ bãi biển Mỹ Khê, và cùng với đó là sự linh thiêng đến từ Đức Mẹ Maria, khiến cho nhiều du khách cũng như người dân nơi đây tìm đến để cầu mong sự che chở của Đức Mẹ.

tổng quan tượng đức mẹ sao biển

Đường đi đến Đức Mẹ Sao Biển

Đức Mẹ Sao Biển nằm cách trung tâm thành phố Đà nẵng khoảng chừng 25km. Nếu xuất phát từ trung tâm thành phố, bạn sẽ đi theo con đường 602 để rẽ phải hướng vào tuyến đường CT02. Tại tuyến đường này, bạn tiếp tục đi thẳng một quãng đường dài khoảng 22km và sau đó rẽ trái hướng vào đường Trường Sơn/QL14B. Tiếp đến, bạn đi thẳng thêm một đoạn đường tại Trường Sơn để đến với đường Võ Nguyên Giáp và rẽ trái vào con đường này là bạn đã có thể đến với địa danh Đức Mẹ Sao Biển.

đường đi đến đức mẹ sao biểnLỊCH SỬ VỀ ĐỨC MẸ SAO BIỂN

Vào năm 2006, Tượng Đức Mẹ đứng nép trong góc tường trong Tu viện các Soeur hưu dưỡng của Dòng Thánh Phaolô. Chính vì không có tường che chắn, nên tượng Đức Mẹ đã được dựng đứng bên ngoài đối diện bờ biển Mỹ Khê. Mặc dù vậy, các vị công giáo gần xa và cả những giáo dân đều đến với Đức Mẹ và nơi đây đã trở thành một điểm đến hành hương phổ biến, thu hút rất nhiều khách du lịch cũng như người dân địa phương tại Đà Nẵng đến viếng Đức Mẹ Sao Biển.

lịch sử đức mẹ sao biển

Tượng Đức Mẹ Sao Biển có lịch sử huyền thoại gắn liền với người dân tại Đà Nẵng

Bên cạnh đó, nguyên nhân tượng Đức Mẹ Sao Biển đứng bơ vơ bên cạnh bờ biển Mỹ Khê là vì câu chuyện bắt đầu từ những cơn siêu bão đi thẳng vào Đà nẵng vào đầu tháng 10 năm 2006. Lúc này, cơn bão này đã càn quét qua thành phố với vận tốc đạt khoảng 120 – 130km/h và nó đã vơ vét hết tất cả những thứ trên đường mà nó đi qua. Thế nhưng, tượng Đức Mẹ ở bãi biển vẫn đứng yên sừng sững giữa cảnh vật tan hoang, những cây thông trốc gốc, những cành thông gãy xơ xác… Chính vì thế, người dân nơi đây mới nhận ra rằng tượng Đức Mẹ chứa đựng sự linh thiêng vô cùng lớn, và khiến cho họ lần lượt kéo đến để cầu khấn, cầu xin sự che chở đến từ Đức Mẹ

CÓ GÌ ĐẶC BIỆT TẠI ĐỨC MẸ SAO BIỂN?

Với những giáo dân gần xa hay kể cả khách du lịch thập phương, họ đều sẽ cảm nhận những sự linh thiêng vốn có đến từ Đức Mẹ Sao Biển. Tại đây, khi đứng nhìn tượng Đức Mẹ đứng sừng sững ngay trước mắt, bạn sẽ cảm nhận như đang được Đức Mẹ che chở khỏi những muộn phiền, lo toan mà thay vào đó là sự bình yên, thanh tịnh trong tâm hồn. Đặc biệt hơn, khi nhìn tượng đài Đức Mẹ với những đóa hoa được đặt cung kính và đầy trang trọng, có lẽ nhiều người đến đây đã cảm nhận được sự an ủi của Đức Mẹ dành cho sự đau đớn, buồn khổ trong tâm trí họ.

vẻ đẹp của tượng đức mẹ sao biển

Vẻ đẹp linh thiêng tại khu vực thờ tượng Đức Mẹ Sao Biển

Không những thế, dù là người dân địa phương hay du khách nơi xa, là người có đức tin hay là người không đức tin, vẫn đều đều đến viếng thăm Đức Mẹ hằng ngày như thể cầu mong Mẹ ban phước những điều tốt lành đến với bản thân. Vì vậy, các nữ tu Dòng Thánh Phaolô đã chuẩn bị thêm một khu vực bên trong khuôn viên để người viếng thăm có thể nghỉ chân được gọi là Nhà Hành hương. Hàng ngày, bức tượng Đức Mẹ Sao Biển đều được chăm sóc một cách chu đáo, và cùng với đó là chính quyền địa phương tại thành phố Đà Nẵng cũng đang chú trọng hơn trong việc bảo dưỡng công viên và Đền Đức Mẹ Sao Biển nhằm mục đích trở thành một điểm đến xinh đẹp đem lại sự bình yên, thanh tịnh cho mọi người.

người dân thăm viếng đức mẹ sao biển

Người dân địa phương thường hay thăm viếng tượng Đức Mẹ Sao Biển

KINH NGHIỆM KHI THAM QUAN ĐỨC MẸ SAO BIỂN

Để có thể chuẩn bị cho một chuyến du lịch tham quan Đức Mẹ Sao Biển một cách trọn vẹn, bạn cần sẽ phải lưu ý những điều sau đây:

  • Mặc những trang phục lịch sự, kín đáo để bày tỏ lòng tôn kính đối với Đức Mẹ

  • Tránh gây ồn ào và cười đùa khi viếng thăm Đức Mẹ

  • Lựa chọn những thời điểm phù hợp để có thể tham quan Đức Mẹ Sao Biển một cách trọn vẹn, tránh xa những thời tiết xấu gây ảnh hưởng

  • Bạn cũng có thể vui chơi bên bờ biển Mỹ Khê sau khi tham quan tượng Đức Mẹ.

Trang bị những kinh nghiệm cần thiết khi tham quan Đức Mẹ Sao Biển

Đức Mẹ Sao Biển là một trong những điểm đến tham quan mà bạn không thể bỏ lỡ trong hành trình du lịch tại Đà Nẵng. Nơi đây không chỉ giúp cho bạn có được một khoảng không gian bình yên, thanh tịnh, mà còn là nơi chứa đựng những sự linh thiêng vốn có đến từ Đức Mẹ, để bạn có thể cầu nguyện những điều tốt đẹp cho những người thân yêu của mình. Nếu bạn có dịp ghé thăm Đà Nẵng tươi đẹp, hãy thử đặt chân đến với Đức Mẹ Sao Biển để có thể tận mắt chiêm ngưỡng những vẻ đẹp linh thiêng cũng như cầu mong, tìm đến sự che chở đến từ Đức Mẹ bao dung, độ lượng trong hành trình du lịch đáng nhớ của mình.

4. Đền Thánh Antôn Trại Gáo

Tôi lại đến Trại Gáo, lần này là vào một buổi sớm của những ngày tàn thu. Những cơn gió đẫm sương sớm mang hơi lạnh phả vào da thịt. Khói nhang bảng lảng. Linh địa khẽ cựa mình, cảm giác như chỉ một cử động nhỏ thôi cũng đủ làm vỡ tan đi cái im ắng Thánh đang trầm mặc bao phủ nơi đây.

Từ lúc mảnh đất này còn là một trang trại của Nhà Chung Xã Đoài với cái tên Trại Gạo, sau đọc trệch ra thành Trại Gáo, cho đến khi trở thành một linh địa bề thế như hiện nay là cả một hành trình thăm thẳm, lắm thác nhiều ghềnh.

Trong dòng chảy hào hùng lẫn bi tráng của giáo phận Vinh, có thể ví lịch sử của linh địa này như một khúc sông, mà dòng chủ lưu ở đấy sáng văn vắt. Bao nhiêu lớp sóng là bấy nhiêu dâu bể phận người và thăng trầm thời cuộc…

* Tích xưa, chuyện cũ

Tích xưa kể rằng Trại Gạo ban đầu là một vùng đồi núi thâm u, chốn nương thân của vài ba gia đình làm công cho trang trại, lẫn với một số người nghèo khổ được các linh mục Nhà Chung đưa về đây sinh sống.

Ngày tháng nối nhau, nhiều hộ dân ở vùng thấp trũng cũng kéo đến kiếm kế sinh nhai, dần dà nhóm thành một họ đạo nhỏ. Một ngôi nhà nguyện được cất lên ngay cạnh kho lúa và thánh Antôn Pađôva được chọn làm bổn mạng cho những mảnh đời khốn khổ nơi rẻo đất heo hút này.

Các cố Tây cho đặt mua một bức tượng thánh Antôn bằng thạch cao từ tận bên Pháp. Tượng đi bằng đường biển, về đến Nhà Chung rồi ngược lên Trại Gáo. Dân xếp hàng cung nghinh tít đầu làng Thanh Hương, định sẽ rước lên tận đỉnh núi. Song sau khi nghỉ ngơi lấy sức thì tượng đột nhiên khựng lại, các dây khiêng đồng loạt bị đứt, thử đủ cách vẫn không xê dịch nổi.

Cho rằng Ông Thánh muốn dừng chân, giáo hữu cho lập một ngôi đền trên chính nơi pho tượng tọa lạc. Đền thờ làm bằng gỗ, dài chừng 18m, rộng 12m.

Phép lạ đầu tiên được loan đi, khai mở cho một truyền kỳ bất tận của niềm tin và lòng trắc ẩn. Đền thánh Antôn trở thành ngôi nhà chung kể từ dạo ấy…

* Nghĩa nặng, tình thâm

Người khắp nơi túa về xin ơn. Những thân xác héo rũ và nhếch nhác lầm lũi mang theo thứ của nả còn đáng giá là những nguyện ước tinh ròng. Cuộc đời họ bị mưa quăng gió quật, đã rách, đã nát, tả tơi đi nhiều, duy niềm tin vào Chúa là vẫn còn đầy đặn.

Vô số người đã nhận được những ơn lành của Chúa qua lời bầu cử của thánh Antôn. Có cả những người không cùng niềm tin tôn giáo. Từ chuyện mất chiếc xe đạp, chỉ vàng, đến đủ chứng bệnh nan y. Từ chuyện miếng cơm manh áo tới cảnh con cái hư hỏng, vợ chồng ly tán. Người này ước thật nhiều tiền tài. Kẻ kia mong đường quan lộ hanh thông. Này là những thiếu nữ đến cầu duyên. Kia là mấy thiếu phụ vô sinh, hiếm muộn. Đủ cả!

Mỗi sinh linh là một câu chuyện về ánh sáng và bóng tối, tình yêu và thân phận… Thảy đều đan quyện và nhói buốt trong nhau. Những câu chuyện đong đầy tình yêu thương, như một bản thánh ca bất hủ về Lòng Thương Xót vượt lên trên bệnh tật, cái chết và sự chia lìa.

Hơn mười thập niên hiện diện, linh địa Trại Gáo như một ngôi nhà từng ngày từng giờ âm thầm giữ ấm cho nhiều trái tim hoang lạnh, những đôi chân đã như rời rã trước vô vàn cảnh đời cùng quẫn, tối tăm, bế tắc, khổ đau, bất hạnh…

Ngôi nhà này đang và sẽ còn bền bỉ thắp lên niềm vui sống cho biết bao phận người. Rằng sau những giông gió, rốt cuộc tình yêu sẽ vượt lên sự hữu hạn, ánh sáng đẩy lui bóng tối, niềm tin chiến thắng bi lụy, hy vọng lấp đầy mất mát và nghịch cảnh khốn cùng…

Vào ngày thứ Ba hàng tuần, tại Trại Gáo vẫn đều đặn diễn ra các Thánh lễ cầu an. Mồng Ba Tết Nguyên đán, hàng chục ngàn người đổ về đây hiệp dâng thánh lễ xin ơn thánh hóa công ăn việc làm, ước nguyện một năm mới an lành, hạnh phúc.

Tinh thần mộ mến thánh Antôn được biểu hiện sinh động nhất vào Đại lễ mừng kính ngài. Ngày Mười Ba tháng Sáu trở thành ngày nhóm họ của tất cả những ai là con cái của thánh Antôn. Dù đi ngược về xuôi, cứ đúng ngày này, những đứa con không phân biệt giáo lương hẹn nhau về Trại Gáo hội ngộ, khấp khởi bồi hồi như về lại nhà mình. Tháng Sáu, trời Vinh nắng như đổ lửa, dòng người tay cầm lá, nước và các ảnh tượng, thành kính dâng lên Ông Thánh hay làm phép lạ những nỗi niềm sâu kín nhất của lòng mình.

* Khát vọng miền địa linh

Nằm trên quốc lộ 34, thuộc địa bàn xã Nghi Phương, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Trại Gáo mang vẻ đẹp thâm nghiêm, phảng phất hồn cốt của một miền thánh địa. Du khách thập phương tới đây có thể thả hồn vào miền thanh tịnh, gột rửa bụi trần, tìm lại sự thanh thản, an yên trong cuộc sống.

Ai đã một lần đến với Trại Gáo, hòa mình vào cái khoáng đạt của đất trời, sẽ còn nghe trong sâu thẳm hơi thở của miền linh địa này giai điệu của một bài ca.

Có người cất cao khúc hát tạ ơn. Có thể trực giác cảm nhận được giai điệu này được hát lên với lòng hân hoan thế nào, khi nhìn vào đầy dẫy những tấm bia tri ân đặt ngay ngắn lối vào cổng Tam quan.

Nhưng cũng có những người đi hát bề trầm. Ca từ của họ là tiếng lòng rên siết, héo hon, sầu muộn. Tay họ cầm chắc cỗ tràng hạt, mắt môi không ngừng mấp máy những lời kinh. Bao nhiêu chuỗi hạt là bấy nhiêu đoạn trường. Này là hạt vui, hạt buồn, hạt cay, hạt đắng…

Bài ca ấy không phải là không lẫn với những tạp âm. Về với linh địa, không thiếu những kẻ miệng khấn tài lộc, nhưng bụng dạ vẫn ngổn ngang những giấc mơ trần tục. Họ cầu an, nhưng hồn trĩu nặng đố kỵ, bon chen, thù hận. Tạp âm đó sẽ vẫn còn lẩn khuất khi người đến đây chỉ biết mở tay chờ chực “phép lạ” cho riêng mình, song lại từ chối mở lòng để trở thành “phép lạ” cho người khác…

Ngày 9 tháng 7 năm 2018, Trại Gáo được Đức Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp nâng lên đơn vị trực thuộc giáo phận với bản quy hoạch mới, xứng tầm là một Trung tâm Hành hương quy mô, hiện đại của Giáo Hội Việt Nam. Hiện linh địa đang từng bước được tôn tạo, trùng tu, hoàn thiện cơ sở với các hạng mục: Đền Thánh, Nhà khách, Lễ đài, Đường Thánh giá, Khu Xưng tội, Nhà Tĩnh tâm, Vườn hoa, Trung tâm y tế…

Dòng người đến với linh địa Thánh Antôn Trại Gáo

Xuôi theo nhịp gõ của thời gian, điều đọng lại trong tâm khảm của mỗi người về Đền Thánh Antôn vẫn là ký ức linh thiêng về một nơi chốn mà yêu thương không bao giờ vơi cạn, nơi mà mãnh lực đáng sợ của nghịch cảnh, ranh giới tột cùng của thân phận phải chấp nhận cúi mình trước sức mạnh của sự dịu dàng.

Trở thành ngôi nhà chung của hết thảy những ai thành tâm tìm đến là giấc mơ bao đời của miền địa linh. Song phải chăng khát vọng lớn hơn nữa là dòng người sau khi trở về từ Trại Gáo biết chắt chiu ân trạch Chúa, mà nuôi nấng và chăm bẵm sự hiền lương trong cuộc đời này.

Bởi bao lâu cung lòng còn ti tiện thấp hèn, thì bấy lâu nhân gian còn mờ mịt đường về bình an. Sống có nhân có nghĩa, có trước có sau, cưu mang những việc tử tế từng ngày một, mới mong có cơ may đón nhận phúc lộc từ Trời.

Và rằng, trên những niềm thê lương của cuộc sống, vẻ trác tuyệt của niềm tin và lòng trắc ẩn phải không ngừng được trao truyền…

sff